Thái độ của bậc trí giả xưa đối với danh lợi và được mất

2 years ago 375

Trong “Thiên kim yếu phương”, Đại y học gia Tôn Tư Mạc viết: “Đức hành bất khắc, túng phục ngọc dịch kim đan, vị năng duyên niên. Đạo đức nhật toàn, bất kì thiện nhi hữu phúc, bất cầu thọ nhi tự duyên”, ý tứ là nếu như đức hạnh của một người không tốt thì cho dù có ăn tiên đan dược liệu cũng không thể kéo dài được tuổi thọ, còn nếu đạo đức của một người là cao thượng hoàn mỹ thì không cần cầu nguyện cũng có nhiều phúc lộc, sống tận thọ mệnh.  Nhân sinh có 5 người cần xem trọng, 3 điều cần xem nhẹ(Tranh minh họa qua Kknews.cc)

Như thế có thể thấy, Đức là yếu tố vô cùng quan trọng và cổ nhân luôn luôn chú trọng sống phải đặt dưỡng đức lên hàng đầu. Muốn dưỡng đức, trước tiên phải dưỡng tính. Tính là lẽ chân chính mà trời ban phú cho con người. Bên trái của chữ tính (“性” ) là chữ tâm (“心”), bên phải là chữ sinh (“生”), ý nói con người khi sinh ra thì đã có lý ở trong tâm rồi. Nếu tâm thuận theo lý thì sống, còn đi ngược lại thì vong. Dưỡng đức, dưỡng tính trước tiên phải bỏ đi cái tâm ham muốn danh lợi, được mất.

Từ bỏ danh lợi, tiêu tán gia tài

Thời kỳ Xuân Thu, Phạm Lãi và Văn Chủng người nước Sở phụ tá Việt Vương Câu Tiễn hai mươi năm, giúp Câu Tiễn diệt Ngô phục quốc, thành tựu được bá nghiệp. Về sau, Phạm Lãi được phong làm Thượng tướng quân, danh tiếng nổi khắp thiên hạ. Phạm Lãi cho là danh lớn khó lòng ở được lâu. Vả lại, Câu Tiễn là người hoạn nạn thì có nhau, nhưng vui thì khó lòng mà ở được an nên ông đã viết thư từ biệt.

Phạm Lãi có con mắt tinh tường, từ tướng mạo của Câu Tiễn mà có thể nhìn rõ được bản tính không thể cùng bề tôi chung hưởng phú quý. Phạm Lãi cũng viết một lá thư khuyên Văn Chủng rời đi nhưng Văn Chủng không tin, cuối cùng bị Câu Tiễn ban cho cái chết.

Phạm Lãi sau khi rời khỏi nước Việt đã đến nước Tề. Ông cải tên đổi họ, dẫn con trai đi khai hoang, cày cấy ở bờ biển, đồng thời cũng buôn bán, gia sản ngày càng tăng lên. Tề Vương nghe nói Phạm Lãi là một vị hiền giả nên đã phong ông làm Tướng quốc phụ tá việc chính sự. Phạm Lãi nhanh chóng làm đến Khanh tướng, gia sản trong nhà ông lên đến ngàn vàng. Có thể nói lúc này công danh phú quý của Phạm Lãi đã đạt đến cực điểm.

Đối với một người bình thường mà nói, đây có lẽ là niềm hạnh phúc lớn lao. Nhưng đối với Phạm Lãi thì không như vậy, ông than rằng: “Ở nhà thì có hàng ngàn lạng vàng, làm quan thì đến công, khanh, tướng quốc, kẻ áo vải được thế là tột bậc rồi, giữ mãi cái tiếng tăm lừng lẫy là không tốt”. Ông cho rằng đây là báo hiệu điềm xấu, bởi vì người xưa có lý niệm rằng “Doanh cực tắc khuy”, tức là thứ gì đã đạt đến cực điểm thì sẽ hướng đến suy bại.

Với quan điểm sống ấy, ba năm sau, Phạm Lãi từ bỏ tước vị, đem tài sản cho hết bạn bè làng xóm, rời khỏi nước Tề đến sống ở đất Định Đảo và lấy tên là Đào Chu Công. Ở đây, cha con ông đồng lòng hợp sức, chuyên cần chăn nuôi buôn bán. Chỉ mấy năm sau, Phạm Lãi đã lại tích lũy được một khối gia sản rất lớn. Cứ có được gia sản lớn, Phạm Lãi lại tiêu tán bằng cách trợ giúp những người nghèo khó, nên dân chúng tôn xưng ông là Thần tài Đào Chu Công.

Người xưa cho rằng danh lợi tiền tài, quan to lộc hậu đều từ đức mà sinh ra. Phạm Lãi chính là nhờ có đức mà giàu có. Cũng chính vì hiểu được điều này, nên Phạm Lãi mỗi lần giàu có thì lại tiêu tán tài sản bằng cách cho người nghèo khó, có xả có đắc.

Được không mừng, mất không buồn

Trong “Phạm tiến trung cử” viết rằng, Ngô Kính Tử vì vui quá đến mức như điên như khùng mà bị trưởng bối đánh cảnh tỉnh. Con người thông thường khi được thì vui mừng phấn khởi, khi mất đi thì bi thương buồn phiền, như thế tâm sẽ bị những vật bên ngoài làm nhiễu loạn. Nhân sinh một đời, cỏ cây một mùa, được mất vinh nhục như mây khói thoảng qua.

Trong “U song tiểu ký” có bộ câu đối chí tình: “Nhất sủng nhất nhục bất kinh, khán đình tiền hoa khai hoa lạc. Khứ lưu vô ý, vọng thiên thượng vân quyển vân thư”, đại ý là xem được mất, sủng nhục của đời người như hoa nở hoa tàn, xem công danh lợi lộc biến đổi như mây cuốn mây bay, đi hay ở tùy ý. Chỉ hai câu đối đã thể hiện ra thái độ của người xưa đối với danh lợi và địa vị.

Trong “Lưu tân khách gia thoại lục” viết: Thời Đường Thái Tông, Lưu Thừa Khánh bởi vì xử sự công chính ngay thẳng nên được phong làm Khảo công viên ngoại lang, quản lý việc đánh giá thành tích của quan lại. Có một lần, trong lúc Lưu Thừa Khánh đang đánh giá quan viên thì có một vị quan quản thủy vận đã sơ suất để thuyền chở lương thực bị chìm. Lô Thừa Khánh viết một câu đánh giá rằng: “Làm chìm thuyền, xem xét giáng hạ chức”.

Lô Thừa Khánh đã rất ngạc nhiên trước thái độ của vị quan viên này. Ông ta không giải thích một lời nào, cũng không có biểu hiện gì là lo sợ, không một chút tức giận, rất thản nhiên tiếp nhận. Trước thái độ ấy, Lô Thừa Khánh ngẫm nghĩ, thuyền chở lương thực bị chìm không phải là trách nhiệm của cá nhân anh ta, với năng lực của anh ta thì cũng không thể cứu vớt được nên đã sửa lời đánh giá thành: “Giữ nguyên chức”. Nhưng vị quan kia vẫn không tỏ ý kiến, cũng không thể hiện một nét mặt kích động nào, chỉ vui vẻ tiếp nhận. 

Lô Thừa Khánh thực sự tán thưởng thái độ ấy của anh ta, ông nói: “Sủng nhục bất kinh! Khó được, khó được!” Cuối cùng, Lô Thừa Khánh sửa lời nhận xét thành: “Được mất không động tâm! Xem xét thăng chức!

Thời Bắc Tống, khi Phạm Trọng Yêm bị giáng chức, phải chuyển đến Đặng Châu sinh sống thì giống như là từ trên cao rơi xuống đáy vực vậy. Nhưng ông vẫn có thể như cũ “vui vẻ thoải mái, sủng nhục đều không nhớ”. Cư sĩ Triệu Phác Sơ từng viết: “Sống cũng vui mà chết cũng không tiếc, hoa tàn rồi hoa lại nở, nước chảy không ngừng, trăng thanh gió mát, không nhọc tâm vướng bận”. Di văn tuy ngắn ngủi  nhưng thể hiện ra quan niệm sống đạm nhiên của ông, được dửng dưng, mất ung dung, đáng giá để người đời sau suy ngẫm.

Theo Epoch Times tiếng Trung
An Hòa biên tập

Xem thêm:

Read Entire Article